In bài này

Tư liệu -35- Bệnh hệ tim mạch

 SƠ LƯỢC VỀ HỆ TIM MẠCH

 Lương y Tạ Minh.
 
            Quả tim là cơ quan có chức năng tạo một lưu lượng máu lưu thông cho toàn cơ thể, là một máy bơm máu đi và hút máu về. Gồm:
-                    Tâm nhĩ phải: hút máu đen từ tĩnh mạch chủ đổ về thông qua van tĩnh mạch chủ bằng cách giãn nở (tâm trương). Co bóp (tâm thu) để đưa máu đen xuống tâm thất phải thông qua van 3 lá.
-                    Tâm thất phải: hút máu đen từ tâm nhĩ phải bằng cách giãn nở (tâm trương) rồi co bóp (tâm thu) tống máu đen lên phổi thông qua van động mạch phổi.
-                    Tâm nhĩ trái: giãn để hút máu đỏ từ phổi về thông qua van tĩnh mạch phổi. Rồi co bóp tống máu đỏ xuống thất trái thông qua van 2 lá.
-                    Tâm thất trái: nở để hút máu đỏ từ nhĩ trái về rồi co để tống máu đỏ ra động mạch chủ thông qua van động mạch chủ.
-                    Tim được nuôi dưỡng bằng một hệ thống mạch máu dành riêng cho nó gọi là mạch vành. Mạch vành tim trái có số lượng nhiều gấp bội lần bên tim phải.
-                    Các động và tĩnh mạch là các ống dẫn để máu lưu thông.
-                    Máu đỏ từ tim theo động mạch chủ chảy ra các động mạch rồi các tiểu động mạch và các vi mạch (còn gọi là mao mạch) đến các cơ quan, tế bào. Máu đen từ các tế bào, cơ quan đổ về các vi tĩnh mạch, dồn về các tiểu tĩnh mạch, về các tĩnh mạch rồi dồn về tĩnh mạch chủ, về tim. Gọi chung là vòng đại tuần hoàn.
-                    Động mạch phổi dẫn máu đen từ tâm thất phải lên phổi. Tại phổi, máu nhả carbonic và nhận oxy để chuyển từ đen sang đỏ. Tĩnh mạch phổi dẫn máu đỏ từ phổi về tâm nhĩ trái. Gọi chung là vòng tiểu tuần hoàn.

PHƯƠNG PHÁP ĐO HUYẾT ÁP 

            Theo nguyên tắc, đo HA luôn cần ống nghe để nghe tiếng mạch đập. Nhưng trong thực tế tôi không dùng ống nghe mà chỉ theo dõi trạng thái hoạt động của kim mà phát hiện một số chức năng khác của huyết áp kế ngoài trị số tâm thu và tâm trương:
-                    Kim khựng lại ≥ 5 nhịp trước khi giật lui: ít nhất cũng bị thiểu năng vành, thường là thiếu máu cơ tim nếu chất lưỡi nhạt tới trắng.
-                    Kim giật lui ngắn một đoạn rồi giật lui dài hơn: có hở val 2 lá, nhiều hay ít tùy mức độ chênh lệch của 2 trạng thái ngắn và dài.
-                    Trị số tâm trương ≤ 50: hở val động mạch chủ.
-                    Kim giật lui ngắn ≤ 2 mmHg (một nấc nhỏ trên mặt đồng hồ HA kế): trương lực tim yếu. Dương hư nếu có sợ lạnh. Nếu không sợ lạnh là tâm khí suy.
-                    Kim giật lui dài ≥ 4 mmHg (2 nấc nhỏ trên mặt HA kế): trương lực tim mạnh, máu loãng (thành phần đặc và lỏng của máu không đúng tỉ lệ: huyết tương nhiều hơn huyết cầu). Âm hư nếu sợ nóng, tâm khí thịnh nếu không sợ nóng. Kiểu giật lui kim này thường gặp trong bệnh Đường huyết hay Lipid huyết, và các trường hợp có sốt cao.
-                    Kim giật lui nhanh: máu loãng.
-                    Kim giật lui chậm: máu đặc (huyết tương thiếu, huyết cầu dư), hoặc có lipid huyết.
-                    Kim giật lui lúc nhanh lúc chậm hay lúc dài lúc ngắn hay có lúc bỏ nhịp: rối loạn thần kinh tim.
-                    Kim giật lui khoảng 3 – 4 mmHg: trương lực tim bình thường, Âm Dương tương đối cân bằng.
TP. Hồ Chí Minh, 1995. 

BỆNH HỆ TIM MẠCH

 Lương y Tạ Minh.
 
            Bệnh thuộc hệ tim mạch đa số là loại bệnh có mức độ gây nguy hiểm cao cho sức khỏe và tính mạng. Sau đây là những bệnh thường gặp mà tôi đã có thành công phần nào trong hệ bệnh này.

6.1. RỐI LOẠN THẦN KINH TIM

            Là tên gọi chung của các triệu chứng rối loạn nhịp tim (tim bỏ nhịp, tim đập lúc nhanh lúc chậm lúc mạnh lúc yếu, tim đập nhanh hay chậm đều nhưng quá mức bình thường): điều chỉnh tổng trạng, cào phản chiếu tim, phản chiếu các nút thần kinh tim và mạng Purkinge.

6.2. THIỂU NĂNG MẠCH VÀNH

            Nếu nặng còn có tên gọi là Thiếu máu cơ tim: có những cơn nặng ngực khó thở, đau thắt ngực có khi lan lên đầu cổ và ra tay. Triệu chứng thường chỉ xuất hiện vài phút rồi tự biến mất, thường xuất hiện khi gắng sức, khi xúc động hay khi nhiễm lạnh. Lưỡi rất nhạt. Nguyên nhân do mạch vành bị co thắt hoặc bít hẹp vì máu đông hay mảng xơ vữa, cũng có thể do u bướu. Điều chỉnh tổng trạng, Tiêu viêm khử ứ, phản chiếu tim, phản chiếu mạch vành (có 6 tuyến phản chiếu mạch vành: từ 0 vòng lên 130 vào 65, từ 0 vào 73, từ 0 vào 61, từ 0 vào 7, từ 0 xéo xuống 29, từ 0 xéo xuống 347).

6.3. NHỒI MÁU CƠ TIM

            Đây là tình trạng nặng đột xuất của thiếu máu cơ tim. Đau dữ dội vùng ngực, vã mồ hôi nóng, huyết áp cao đột ngột (HA tâm thu trên 170). Thuộc diện cấp cứu tại bệnh viện.

6.4. HUYẾT ÁP THẤP

            Là một bệnh chứng còn nhiều bí ẩn về cơ chế và nguyên nhân gây bệnh. Tuy cũng có thành công nhưng không chắc chắn như các bệnh khác. Vẫn lấy điều chỉnh tổng thể làm chủ.

6.5. HUYẾT ÁP CAO

            Là triệu chứng của một bệnh nào đó trong cơ thể. Phải tìm cho ra căn bệnh gốc này. Chữa bệnh gốc xong thì HA tự hạ và ổn định lâu dài. Trong thời gian chưa tìm ra gốc bệnh HA luôn dao động cao, cho nên cần duy trì thuốc hạ áp cho đến khi HA bắt đầu hạ ổn định 2 tuần liên tiếp thì giảm liều thuốc HA, cứ thế cho đến khi HA trở về mức bình thường, lúc này thử bỏ thuốc, nếu ổn định suốt 2 tuần liên tiếp thì có thể bỏ hẳn thuốc HA. Tuy vậy có nhiều ca không thể bỏ thuốc hạ áp được mà phải uống một liều thấp nhất thích hợp đến suốt đời. Các bạn không nên chủ quan với loại bệnh này như chủ trương của một số thầy khác, vì có thể gây hại không cứu vãn được cho bệnh nhân.
            Có hai trường hợp tổng quát về tăng HA. Huyết áp cao Âm chứng và Dương chứng. Trong cắt cơn tăng HA, dùng bộ Thăng khi HA cao Âm chứng, dùng bộ Giáng khi HA cao Dương chứng. Trong điều trị, điều chỉnh tổng trạng làm chủ lực. Tìm thêm tạng phủ có bệnh và điều chỉnh tạng phủ này. Tìm hiểu cơ chế gây bệnh cho tạng phủ như viêm – tắc mạch – xơ hóa – vôi hóa (sỏi)……v.v.. khiến tạng phủ mất hay giảm chức năng. Đôi khi tăng HA chỉ do tắc mạch một nơi nào đó trong cơ thể, thường xảy ra ở vùng cổ gáy hay vùng đầu (mạch cảnh hay mạch nền sọ), lúc này HA hai tay sẽ chênh lệch rõ ràng, thông mạch là xong.

6.6. RỐI LOẠN TUẦN HOÀN NÃO

            Nặng đầu kèm choáng váng, tăng ở tư thế đứng, không thay đổi ở tư thế nằm khi trở mình. HA bình thường hoặc thấp. Điều trị: day dầu hay hơ có dầu Bộ Thăng, phản chiếu đầu (hàn chứng: thiểu năng tuần hoàn não). Day vaseline bộ Giáng, phản chiếu đầu (nhiệt chứng: huyết vùng đầu không thông, chưa phải là huyết ứ). Muốn khỏi bệnh lâu dài cần điều chỉnh tổng trạng.

6.7. RỐI LOẠN TIỀN ĐÌNH

            Chóng mặt, tăng khi thay đổi tư thế nhất là khi nằm trở mình. Huyết áp bình thường. Điều trị: day dầu hoặc hơ có dầu Bộ Thăng, phản chiếu đầu. Nhận xét: thông qua việc điều trị hai bệnh chứng này, tôi cho rằng rối loạn tiền đình là một dạng thiểu năng tuần hoàn não dạng đặc biệt chỉ xảy ra ở vùng Tiền đình. Đông y gọi bệnh thứ 6 và thứ 7 này là Huyễn vựng.

6.8. HỞ VÀ HẸP VAL TIM

            Bệnh val tim có 2 loại: bệnh chức năng (do thần kinh hoặc những nguyên nhân khác) và bệnh tổn thương thực thể (xơ hóa thường do thấp tim gây di chứng, bệnh tim bẩm sinh như thông nhĩ…). Chúng ta chỉ nên nhận điều trị những trường hợp bệnh lý chức năng. Chẩn đoán hàn nhiệt, phản chiếu val tim. Val tĩnh mạch chủ: vùng huyệt 129 +. Val động mạch phổi: vùng 60 +. Val 3 lá: vùng 73 + và toàn bộ nửa mặt bên phải từ tuyến VI trở xuống. Val động mạch chủ: vùng 60 -. Val tĩnh mạch phổi: vùng 129 -. Val 2 lá: vùng 73 – và toàn bộ mặt bên trái từ tuyến VI trở xuống.

 6.9. TÂM DƯƠNG HƯ

            Hơ có dầu 19, nếu không hiệu quả thì hơ có dầu Bổ trung hay Thăng, 189. Triệu chứng: huyết áp âm chứng, không sợ lạnh, không làm việc được.

6.10. TÂM KHÍ HƯ

            Day vaseline 19. Nếu không hiệu quả thì dùng bộ Thăng, 189. Triệu chứng: huyết áp âm chứng, không sợ lạnh, làm việc nhẹ bình thường, làm việc nặng thì mệt.
Kiêng cữ: nói chung cần tránh những thay đổi đột ngột về môi trường sống, thời tiết, nhiệt độ, ăn uống. Không nên để bị cảm hay thương thực, những bức xúc tình cảm vui lẫn buồn cao độ. Và kiêng các thức ăn theo cơ chế gây bệnh trong đó LẠNH và CHUA là quan trọng hàng đầu vì hai vị này luôn làm co mạch, co cân cơ.
TP. Hồ Chí Minh, 1997.
In bài này

Tư liệu -34- Bệnh hệ thần kinh

 Lương y Tạ Minh

5.1. MẤT NGỦ

            Là triệu chứng của một bệnh nào đó. Vì thế cần chẩn đoán tổng trạng, lưu ý đến yếu tố tinh thần.
-                    Về tinh thần thì bộ An thần (124, 34, 106, 26) là chủ lực. Nếu thuộc dạng hưng phấn ta thêm 3 + -, 222 + -, 156 + -, 87. Nếu thuộc dạng trầm cảm (và suy nhược thần kinh) ta thêm: bộ Thăng, 107, 175, 342, 340.
-                    Về thể chất thì điều chỉnh tổng trạng là chính.
-                    Đối với những trường hợp mất ngủ có quy luật. Ta dùng các quy luật về Kinh khí và Thiên khí đã biết để điều chỉnh.
-                    Đặc biệt có một loại mất ngủ không điều trị được là mất ngủ lâu năm nhưng không hề ảnh hưởng rõ rệt gì tới tổng trạng cả???? Bệnh nhân vẫn ăn uống sinh hoạt gần như bình thường, không hề giảm cân gầy mòn gì, khả năng làm việc trí óc vẫn tốt. Loại này khó trị.

5.2. SUY NHƯỢC THẦN KINH 

            Vùng đầu có cảm giác khó chịu cho tới đau khi phải vận dụng trí óc. Khi bệnh nặng có thể gây mất ngủ. Giai đoạn đầu dán bộ Thăng, 124, 34, 340, 175, 107. Giai đoạn sau có thể day dầu.

5.3. CUỒNG

            Là một thể bệnh tâm thần thuộc loại hưng phấn, bệnh nhân rất hung dữ. Nhưng nếu bệnh nhân còn có thể kềm chế không hành hung thì có thể trị được, ở đây theo Tây y là rất nhẹ, tuy nhiên nếu không điều trị đúng mức thì có thể nặng thêm về sau. Bộ Giáng làm chủ lực trong giai đoạn đầu. Bộ Bổ Âm huyết trong giai đoạn sau khi khỏi bệnh. Vì hầu hết bệnh nhân mắc bệnh này đều có tình trạng Âm hư.

5.4. ĐIÊN

            Là thể bệnh tâm thần trầm cảm, thuộc loại hiền lành không nói năng đụng chạm tới ai. Bộ Thăng làm chủ lực. Có thể thêm 106, 107, 175, 342, 340.

5.5. VIÊM THẦN KINH V

            Triệu chứng: đau rát, nóng một vùng hay toàn bộ một bên mặt. Đau tăng khi có sự va chạm vào da mặt, khó thể đánh răng rửa mặt. Có khi chỉ cần một cơn gió thoảng qua cũng làm đau tăng lên. Điều trị: áp lạnh Tiêu viêm, phản chiếu mặt ở mu bàn tay bàn chân. Cần điều chỉnh tổng trạng khi đã giảm triệu chứng bệnh.

5.6. LIỆT MẶT

            Còn gọi là Liệt thần kinh VII. Bệnh này đa số là một dạng tai biến nhẹ nên cách điều trị cũng là phác đồ điều trị Tai biến mạch máu não (ngay lúc mới bị bệnh, nửa mặt bên liệt luôn luôn lạnh hơn bên lành). Cần tác động thêm cơ mặt bên liệt. Tuy nhiên cũng có trường hợp liệt mặt do virus tấn công làm tổn thương dây thần kinh VII (nửa mặt bên liệt nóng hơn bên lành). Trường hợp này thì nên dùng bộ Tiêu viêm, phản chiếu dây thần kinh VII. Loại này kết quả rất hạn chế vì một số dây thần kinh đã bị virus phá hỏng.
In bài này

Tư liệu -36- Bệnh hệ vận động

 Lương y Tạ Minh.

 4.1. ĐAU GÁY VAI

            Gáy vai thường đau dột ngột sau một giấc ngủ. Nếu là lần đầu tiên hoặc lâu lâu (vài năm) mới bị một lần thì đa số là do nhiễm lạnh trong khi ngủ. Dùng giải pháp làm ấm cơ thể bằng day dầu hay hơ có dầu bộ Bổ trung hay bộ Thăng, phản chiếu hoặc đồng ứng gáy vai. Thông thường chỉ trị một lần là khỏi hẳn ngay tại chỗ. Nếu không khỏi hẳn ta điều trị tiếp như sau:
-                    Đau khi cúi đầu hoặc quay đầu qua bên này thì đau bên kia: hơ có dầu đồng ứng gáy ở cổ tay và cổ chân.
-                    Đau khi ngửa đầu hoặc quay đầu qua bên nào thì đau bên đó: dán salonpas bộ Tiêu viêm, phản chiếu gáy theo Đồ hình Dương.
Nếu là trường hợp thường xuyên, nhiều lần trong năm thì có thể có thoái hóa vùng cột sống cổ và cột sống lưng trên (đoạn từ D1 đến D4-5). Xem phần Thoái hóa cột sống.

4.2. ĐAU KHỚP VAI, KẸT KHỚP VAI

            Khớp vai bị đau đến mức không thể đưa tay lên chải tóc hay ngoặc tay ra sau lưng được. Tây y gọi là viêm chu vai (viêm quanh vai). Lần đầu nên hơ xoa dầu bộ Thăng, Tiêu viêm, phản chiếu khớp vai Đồ hình Dương, Âm, Trắc diện, Vỏ não. Sấy có dầu tại khớp vai và quanh khớp. Các ngày sau chỉ cần day dầu bộ Tiêu viêm, phản chiếu khớp, sấy dầu tại khớp. Tuy nhiên việc duy trì bộ Thăng và hơ ngải cứu bao nhiêu ngày là tùy thể trạng bệnh nhân mà quyết định cho phù hợp, đề phòng sự quá liều về ngải cứu. Đây là một bệnh cấp nhưng lại mang tính chất của bệnh mạn tính, do đó nên điều trị theo dạng mạn tính. Bệnh nhân cần tập quay tay vòng tròn quanh khớp thì mới mau khỏi bệnh, khi quay cần thẳng tay chứ không cong.

4.3. ĐAU LƯNG

            Hầu hết mọi trường hợp đau lưng nếu không do chấn thương viêm tấy thì đều do có trục trặc ở các khớp đốt sống hay chính các đốt sống. Với bệnh lý của chính đốt sống thì ta có gãy, vỡ, xẹp là những bệnh lý không thể điều trị được (cần phẫu thuật thay đốt sống giả). Các bệnh lý cột sống có thể điều trị:
-                    Trượt đốt sống: đau lưng kèm tê và yếu chân khi đứng và đi lâu, mất triệu chứng khi nằm lâu. Chỉ điều trị được khi rất nhẹ, theo kinh nghiệm những ca bệnh tôi đã điều trị thì khoảng 1/8 là còn trị được, ít hơn “trượt đốt sống độ 1” của Tây y, cần chụp X quang nơi bị đau, thường xảy ra ở vùng L4-L5 và L5-S1. Điều trị: chẩn đoán hàn nhiệt, day Bổ trung với kỹ thuật thích hợp, phản chiếu. Bắt buộc bệnh nhân mang đai lưng để cố định cột sống. Hạn chế đi đứng, tuyệt đối không mang vác cái gì.
-                    Viêm khớp đốt sống: đau trong mọi tư thế. Chẩn đoán hàn nhiệt rồi chọn phương án thích hợp. Hàn thì làm ấm, Tiêu viêm, phản chiếu. Nhiệt thì chỉ Tiêu viêm, phản chiếu. Kiêng lạnh, chua, gà, mắm, nếp.
-                    Thoái hóa đĩa đệm (xơ, cứng, xẹp, hẹp): Xơ cứng thì đau nhiều khi chuyển động sau khi nằm yên lâu, như thức giấc sau khi ngủ dậy; hoạt động một lúc thì giảm dần nhưng không hết hẳn. Xẹp hay hẹp chỉ đau nhiều khi ngồi đứng, nằm thì đau giảm. Đau nhiều khi mang vác nặng, càng lúc càng tăng. Day Bổ Âm huyết, phản chiếu. Hạn chế đi đứng nhiều, tuyệt đối không mang vác bất cứ cái gì. Nên nằm nhiều hơn ngồi, đứng. Nên tập các động tác làm dẻo lưng.
-                    Thoát vị đĩa đệm: với Tây y đây cũng thuộc thoái hóa đĩa đệm. Triệu chứng đặc trưng là khi đau khi không, không có quy luật. Day dầu Bổ trung, phản chiếu. Kiêng chua lạnh, phải mang đai lưng. Tuy nhiên chỉ điều trị được những trường hợp rất nhẹ, chưa đánh giá được mức độ nào là còn chữa được vì X quang không chẩn đoán được. Với CT hay MRI thì chưa đủ số ca bệnh để kết luận.
-                    Thoái hóa cột sống: là một từ chỉ chung những thay đổi thực thể của cột sống: vôi hóa đốt sống (gai cột sống), xẹp đốt sống. Chỉ điều trị được vôi hóa cột sống. Đau nhiều thì day Bổ trung với dầu, phản chiếu. Sau khi giảm đau nhiều mà không khỏi hẳn thì chuyển qua day vaseline bộ Bổ Âm huyết, phản chiếu. Bệnh này điều trị lâu, kết quả chậm chạp và có khi không khỏi hẳn mà thành công có mức độ. Chú thích: có nhiều anh chị em điều trị thấy bệnh nhân hết đau hẳn thì cho rằng trị khỏi, nhưng thật ra là chỉ trị được sự viêm phần mềm quanh gai mà thôi chứ gai thì không giảm tí nào. Tuy nhiên có nhiều trường hợp gai biến mất là do may mắn có lẽ vì chất liệu cấu tạo gai mềm dễ tan rã, điều này có thực nhưng chưa biết chắc chắn nhờ đâu mà điểm vôi hóa mất hẳn - trường hợp này khá ít ỏi.

4.4. ĐAU THẦN KINH TỌA

            Đau chân kèm có cảm giác khó chịu vùng thắt lưng hay vùng mông (đây là điểm khác biệt với đau chân do tắc mạch) vì đau thần kinh tọa luôn có gốc bệnh lý ở vùng cột sống, vùng khớp cùng-chậu hay vùng khớp chậu-đùi. Khám tại chỗ vùng thắt lưng, cùng-chậu, chậu-đùi để tìm gốc bệnh. Do đó chỉ cần điều trị tập trung vào vùng gốc bệnh, không nên điều trị vào vùng chân (dù kết quả rất nhanh) vì khi mất triệu chứng đau chân bệnh nhân sẽ ngưng điều trị, và sau đó sẽ tái phát nhanh vì vùng gốc của bệnh chưa điều trị xong. Chẩn đoán hàn nhiệt, chọn kỹ thuật thích hợp, dùng bộ Tiêu viêm, phản chiếu và tác động thêm tại chỗ. LƯU Ý: vì là bệnh lý của xương khớp nên cần chẩn đoán thêm đau do nguyên nhân cơ chế nào (viêm khớp, thoái hóa khớp, loãng xương gây biến dạng xương, thoái hóa đĩa đệm…) để có tiên lượng và phương án thích hợp.

4.5. BONG GÂN

            Dùng bộ Tiêu viêm khử ứ phản chiếu.

4.6. LIỆT MỘT CƠ PHẬN NÀO ĐÓ 

            Dùng bộ huyệt Liệt do tai biến mạch máu não và Chấn thương sọ não vì đây là do tổn thương khu trú tại não do vỡ mạch hay tắc mạch. Nếu bệnh nhân bị sốt cao trước hoặc trong khi liệt diễn tiến thì lại do siêu vi tấn công vào hệ thần kinh. Trường hợp này khó tìm phản chiếu, nên chẩn đoán hàn nhiệt, chọn kỹ thuật và phác đồ điều chỉnh tổng thể tương ứng, Tiêu viêm, phản chiếu não tủy và toàn thể cơ phận liệt. Thí dụ: liệt một cánh tay (hoặc bàn tay hoặc một vài ngón tay) thì phản chiếu ở đây sẽ là vùng đầu, cột sống cổ dài đến CS lưng trên (vùng D1 – D5), cánh tay bàn tay kể cả các ngón.

4.7. THẤP KHỚP 

            Đau, sưng, đỏ tại khớp. Nóng nhiều là nhiệt, âm ấm là hàn. Dùng bộ Tiêu viêm – Lọc thấp - phản chiếu – tại chỗ (kích thích quanh khớp), kỹ thuật thì theo hàn nhiệt mà chọn. Với hơ ngải cứu (hàn chứng) thì mỗi huyệt chỉ nên hơ kích nóng một lần, không nên hơ nhiều có hại về sau. Với nhiệt chứng thì nên lăn gai.
LƯU Ý: cần cảnh giác với bệnh Thấp tim là một thể đặc biệt của thấp khớp, có nhiễm trùng cho nên điều trị theo Tây y tốt hơn, ta chỉ nên hỗ trợ. Triệu chứng: thuở nhỏ hay bị viêm họng, sưng -nóng - đỏ - đau tại khớp, sốt từ 380C trở lên, nhịp tim nhanh dù sốt hay không, có thể có rối loạn nhịp tim. Tự khỏi dù không điều trị gì cả, khi khỏi không để lại dấu vết gì. Tái đi tái lại nhiều lần.

4.8. THOÁI HÓA KHỚP 

            Triệu chứng đặc trưng là càng vận động cho khớp thì khớp càng đau. Nghỉ thì giảm. Loại này ta chỉ chữa triệu chứng giảm đau, không thể trị dứt được vì khớp đã hư hỏng. Dặn dò bệnh nhân không nên tập nặng cho khớp, không mang vác bất cứ cái gì. Điều trị: Bổ Âm huyết, Tiêu viêm, phản chiếu, khai thông tại khớp.
            Đây chỉ là những bệnh điển hình thường gặp và có phương cách điều trị hơi đặc biệt.Tất cả những trường hợp còn lại đều theo cách điều trị tổng quát: chẩn đoán tổng thể, chẩn đoán nguyên nhân cơ chế bệnh, phản chiếu. Điều trị đáp ứng theo các yếu tố vừa tìm được.
TP. Hồ Chí Minh, 1993.
In bài này

Tư liệu -33- Bệnh hệ tiêu hóa

 Lương y Tạ Minh

3.1. NUỐT NGHẸN

            Nuốt vào khó khăn, thậm chí không nuốt thức ăn thức uống xuống được. Đây là có trở ngại vùng từ cổ họng đến cuối thực quản. Thường gặp do có một đoạn thực quản bị co thắt (do lạnh, do kích xúc thần kinh, do có tổn thương, do thiếu dinh dưỡng cục bộ, có thể do hỗn hợp), cũng có thể do có khối u trong hay ngoài thực quản chèn ép. Cũng có thể do val Tâm vị không mở, nguyên nhân cũng có nhiều. Khi chẩn đoán cần tìm cho ra nguyên nhân cụ thể, kết hợp với nội soi càng tốt. Điều trị: điều chỉnh tổng trạng, trị theo cơ chế, phản chiếu nơi có bệnh (cần dò sinh huyệt dọc từ 312 đến 61 -).

3.2. ĂN VÀO ÓI RA

            Thường do hàn tà ở Vị, điều trị: làm ấm dạ dày. Cũng có khi do dạ dày bị viêm loét, thức ăn cọ xát kích thích làm ói, điều trị: theo cơ chế. Cần kết hợp với Tây y. Triệu chứng này cũng thường gặp trong bệnh viêm họng ở trẻ em. Khác nhau ở chỗ viêm họng thì ăn vào là ói ngay không hoàn tất được bữa ăn, còn nếu do Vị hàn thì ăn xong một lúc sau mới ói.

3.3. ĂN KHÔNG TIÊU

            Có nhiều cơ chế:
-                    Do dạ dày không co bóp hay co bóp yếu: thức ăn bị lên men chua nên sẽ có ợ chua, vừa đau vừa tức vùng thượng vị. Điều trị: day dầu Bổ trung, phản chiếu dạ dày.
-                    Do dạ dày không tiết dịch vị: đau tức và xót xa bào bọt trong dạ dày càng lúc càng tăng; điều trị: dùng bộ Bổ Âm huyết và phản chiếu dạ dày, hoặc uống nước dừa tươi một cách chậm rãi cho đến khi thấy hết xót xa thì ngưng, thường chỉ cần chừng ½ ly lớn. Do dịch vị dạ dày không đủ thành phần: chỉ đau tức mà không xót xa bào bọt; điều trị: dùng bộ Bổ Âm huyết, phản chiếu dạ dày.
-                    Do Tiểu trường bị lạnh: dạ dày tức nhiều hơn đau, nhịn ăn thì giảm tức, không ợ hoặc ợ hôi. Còn hai trường hợp trên thì dù nhịn ăn vẫn không giảm đau tức có khi còn tăng lên. Điều trị: làm ấm Tiểu trường.
LƯU Ý: nếu dùng các giải pháp nêu trên mà không hiệu quả thì có thể có tổn thương thực thể như viêm loét, u bướu.

  3.4. ĐAU BAO TỬ

            Có hai dạng chính thường gặp là viêm và loét hoặc viêm lẫn loét. Phương pháp chẩn đoán chính xác nhất là nội soi. Dựa vào lâm sàng, có các bệnh sau:
-                    Viêm bao tử do lạnh: thường lên cơn đau về đêm khoảng 23g đến 3 giờ, khi đau hay ứa nước miếng (nước giải) lạt hoặc hơi mặn. Hơ xức dầu phản chiếu dạ dày. Cữ ăn uống lạnh.
-                    Loét dạ dày: đau tăng khi đói, cũng có lúc ăn xong đau hơn có thể gây ói. Cắt cơn đau bằng vaseline hay nước đá. Nên trị theo Tây y công thức của Úc. Cữ chua tuyệt đối đến suốt đời thì mới không tái phát, tuy nhiên, thỉnh thoảng có thể dùng một lần với nồng độ thấp. Hoặc tốt nhất là dùng vitamin C loại tan trong ruột để bổ sung vit. C cho cơ thể có thể bị thiếu do cữ chua. Nhưng theo tôi ở Việt Nam và các xứ nhiệt đới rất dồi dào rau quả nên khó thiếu vitamin C khi ta ăn uống với một chế độ hợp lý: không ăn uống thức gì lâu dài mà nên luôn thay đổi món ăn từng ngày, tránh trùng lắp.
-                    Viêm dạ dày:
Ø    Viêm phù nề: thường do lạnh, đau tăng khi ăn uống thức ướp lạnh hay các thức ăn quá mát, thường có những cơn đau về đêm kèm với hiện tượng ứa nước miếng hơi mặn hay nhạt. Điều trị: làm ấm dạ dày bằng xoa dầu, dán cao hay hơ ngải cứu phản chiếu dạ dày, day dầu tiêu viêm, 290, 7, 347.
Ø    Viêm xung huyết: cơn đau không có quy luật. Day vaseline Bổ Âm huyết, Tiêu viêm, lăn gai phản chiếu dạ dày.
-                    Sa dạ dày: ăn vào thì cảm thấy nặng nề vùng dạ dày và mệt mỏi toàn thân tay chân như không có sức, nằm nghỉ một lúc thì hết, ngồi dậy hoặc đi đứng một lúc thì nặng nề và mệt mỏi lại (khi còn no bụng). Điều trị: lần đầu nên hơ xoa dầu bộ Thăng, phản chiếu dạ dày và vùng trên dạ dày. Các lần sau có thể day cào bằng dầu. Nặng thì có thể hơ xoa dầu tại vùng bụng theo nguyên tắc phóng chiếu. LƯU Ý: có một số bệnh nhân có thói quen uống thật nhiều nước vào sáng sớm, đây là một nguyên nhân thường gặp trong bệnh sa dạ dày. Uống nước nhiều vào sáng sớm mới thức dậy là theo một lý thuyết xuất phát từ Nhật nhằm mục đích dễ đại tiện, tuy nhiên có nhiều hậu quả xấu như to tim, sa giãn phúc mạc khiến sa nội tạng trong đó dạ dày dễ bị nhất, phù không rõ nguyên nhân…

3.5. SÔI RUỘT

            Tiểu trường giảm chức năng, có thủy ẩm trong ruột, thường đi cầu phân nhão hoặc lỏng lẫn đặc. Điều trị: làm ấm Tiểu trường bằng hơ xoa dầu hay dán cao, 290, 7, 347.

3.6. TIÊU CHẢY

-                    Do nhiễm trùng: đau bụng trước một thời gian từ 30 phút đến 1 giờ rồi mới bị đi cầu, khi đi cầu hậu môn có cảm giác bị nóng, phân rất hôi thối, lần đi cầu đầu tiên thường chỉ nhão chứ không lỏng. Diễn biến từ nhẹ tới nặng dần. Ấn vùng bụng thấy đau: đau vùng quanh rốn là viêm Tiểu trường, đau vùng hai bên hông là viêm Đại trường. Điều trị: Tiêu viêm, phản chiếu. Nên dùng nước đá áp lạnh, nên kết hợp với bác sĩ để dùng kháng sinh ngay, không nên để lâu có hại cho niêm mạc ruột biến thành rối loạn mạn tính khó trị về sau.
-                    Do nhiệt tà: đau bụng rồi tiêu chảy ngay một cách đột ngột. Hậu môn nóng, phân lỏng ngay từ lần đi cầu đầu tiên và hôi thối. Đặc điểm là vừa đi cầu vừa đánh rắm, có khi bắn tung tóe như phun vòi sen!! Điều trị: áp lạnh 124, 34, 106, 26, 143, phản chiếu Tiểu và Đại trường.
-                    Do hàn tà: đau bụng rồi đi cầu đột ngột, phân lỏng chảy như rót nước không đánh rắm, không hôi mà tanh, không nóng hậu môn. Điều trị: hơ xoa dầu sau đó dán cao bộ Thăng.
-                    Do nhiễm độc thực phẩm: triệu chứng không rõ rệt về mặt hàn hay nhiệt, có thể xuất hiện thêm những triệu chứng của nhiễm độc như chóng mặt, nhức đầu, buồn nôn, nôn. Đặc biệt là không đáp ứng rõ rệt với những liệu pháp điều trị nêu trên. Điều trị: bộ Tiêu viêm giải độc.

3.7. ĐI TIÊU RA MÁU

-                    Phân đen: tổn thương vùng dạ dày hoặc Tiểu trường.
-                    Ra máu bầm: tổn thương vùng kết tràng lên hoặc kết tràng ngang.
-                    Ra máu tươi: có tổn thương ở vùng kết tràng xuống, xuống đến vùng hậu môn. Có thể do viêm cấp, do u nhọt bị vở miệng, do loét, do trĩ.
Phác đồ chung: 26, 61 - +, 38 - +, 156 - +, 16 - +,0 - +. Phản chiếu vùng bị tổn thương.
            Cần chẩn đoán hàn hay nhiệt chứng. Dò sinh huyệt, có thể kết hợp ấn vùng bụng tìm nơi đau tức.
-                    Trĩ, thực chất là một loại u nhọt trong trực tràng. Dân gian thường gọi là trĩ nội vì không thấy, không sờ được, nhưng có một số trường hợp mụn trĩ mọc sát bờ hậu môn nên cũng thấy và sờ được. Nếu là trĩ thì ngọn có thể có nhiệt nhưng gốc luôn là hàn. Do đó ban đầu trị theo hàn chứng, giai đoạn sau trị theo nhiệt chứng. Hàn chứng thì dùng hơ xức dầu hoặc day cào với dầu, nhiệt chứng thì dùng day cào với vaseline (không dùng nước đá, áp lạnh chỉ thích hợp với các bệnh cấp tính, trĩ là bệnh mạn tính). Trong thực tế có thể phức tạp hơn là phải biến đổi hàn – nhiệt như thế mấy lần mới xong. Đừng quên điều chỉnh tổng trạng. 

3.8. SA TRỰC TRÀNG (phụ: Sa nội tạng)

            Dân gian thường gọi là trĩ ngoại vì thấy và sờ được. Nói chung về các chứng sa nội tạng đều cần Bộ Thăng. Tùy thể trạng mà hơ xức dầu hay chỉ day ấn, luôn cần phản chiếu nội tạng bị sa và hệ thống mạc treo nội tạng đó. Có thể tác động theo hệ phóng chiếu.

3.9. BÓN

            Hoặc vài ngày mới đi cầu một lần hoặc là đi cầu khó khăn. Phân có thể khô: bón táo, phân có thể nhão: bón ướt. Phân có thể to bình thường hay phân cũng có thể nhỏ chừng bằng ngón tay út. Các tình trạng phân thường gặp:
-                    Đầu cứng sau mềm, phân to bình thường: nhu động ruột kém, có thấp thủy nhẹ: day dầu Bổ trung, cào dọc theo phản chiếu khung Đại tràng.
-                    Cứng từ đầu đến cuối, phân to bình thường: nhu động ruột kém, không có thấp thủy. Điều trị như trên nhưng không dùng dầu mà dùng vaseline.
-                    Từ mềm tới nhão, hình dáng bình thường: có thủy ẩm. Day dầu Bổ trung, 290 - +, 7 - +, 347 - +, 87.
-                    Từ mềm tới nhão, phân nhỏ như ngón tay út: có thủy ẩm và phù nề niêm mạc đại tràng. Day dầu hoặc hơ xức dầu Bổ trung, 290 - +, 7 - +, 347 - +, phản chiếu khung Đại tràng.
-                    Phân nhỏ cứng như phân dê: có co thắt hoặc khối u chèn ép vùng kết tràng ngang hoặc xuống hoặc vùng Sigma. Lâm sàng: đau cố định tại một điểm ở các vùng nêu trên trước khi mót cầu và đi cầu. Cận lâm sàng: phim cản quang hay nội soi. Điều trị: day vaseline Bổ Âm Huyết, phản chiếu nếu do co thắt. Tiêu viêm, phản chiếu nếu do khối u. LƯU Ý: Trường hợp này nếu đau nhiều hoặc có máu và trị không dứt được thì nên nghĩ đến ung thư.

3.10. VIÊM ĐẠI TRÀNG MẠN

            Có hai loại với hai triệu chứng khác nhau.
-                    Loại thứ nhất: tiêu chảy thường xuyên khi ăn uống phải thức ăn mát như rau quả tươi sống hay nấu chín hoặc một số loại thức ăn uống không thích hợp với cơ thể. Điều trị: day dầu và dán Bổ trung, tiêu viêm, phản chiếu khung Đại tràng, Tiểu tràng.
-                    Loại thứ hai: xen kẽ với những ngày bón không đi cầu là có ít nhất một ngày tiêu chảy. Chẩn đoán hàn nhiệt cục bộ vùng bẹn phải, dưới và bên phải rốn. Day tiêu viêm, vùng huyệt 104 +. Cần chẩn đoán hàn nhiệt để có kỹ thuật tương ứng.
 3.11. ĐAU VÙNG BỤNG
            Đây là loại triệu chứng thường gặp với hiện tượng đau cả vùng bụng, đôi khi không xác định được nơi đau chính xác cụ thể. Có khi điểm đau chạy lòng vòng, có khi đau lan tỏa cả vùng bụng, có khi lan ra tới lưng hay từ lưng lan ra trước bụng nhưng không gây đi cầu lỏng, nếu có thì chỉ một lần rồi thôi. Đặc điểm của nó là luôn có sốt, có thể cao. Đây là một triệu chứng của một cơ quan nào đó trong vùng bụng bị viêm cấp hoặc bế tắc như tắc mật, sỏi niệu.
            Đối với triệu chứng này muốn chẩn đoán tương đối đúng cần ấn vùng bụng tìm điểm trung tâm của vùng đau. Khi tìm được trung tâm điểm đau thì dựa vào cơ thể học mà đoán cơ quan có vấn đề. Có thể kết hợp với những triệu chứng chi tiết kèm theo thì chẩn đoán gần với chính xác hơn. Thí dụ: khi viêm cơ thẳng bụng thì không thể tự ngồi dậy được vì trong khi cố ngồi dậy thì cơn đau tăng dữ dội; khi viêm tụy hay ống mật thì không thể ăn uống gì vì ăn vào là nôn ói ngay……v.v.. Triệu chứng rất phong phú, cần kinh nghiệm nhiều. Điều trị: nên đưa ngay đến bệnh viện gần nhất vì đây thuộc loại cấp cứu, cần nhiều phương tiện kỹ thuật của bệnh viện.
            Các bạn cần ghi nhớ: an toàn cho bệnh nhân là trên hếtCho nên không được giữ bệnh trong những trường hợp thuộc loại cấp cứu.
In bài này

Tư liệu -32- Bệnh hệ niệu và sinh dục

 Lương y Tạ Minh

2.1. RỐI LOẠN TIỂU TIỆN

            RLTT gồm có các triệu chứng tiểu ít, tiểu gắt, tiểu lắt nhắt, tiểu khó, tiểu gấp, tiểu nhiều, tiểu đêm, tiểu vàng sẫm, tiểu đỏ, bí tiểu và vô niệu. Trung bình một ngày đêm mỗi người đi tiểu chừng 3 đến 5 lần. Như thế nếu tiểu ít lần thì mỗi lần phải tăng lượng lên, nếu tiểu lượng ít thì số lần phải tăng lên. Tổng lượng nước tiểu khoảng 1,5 lít màu hơi vàng nhạt hơn màu bia một chút. Tuy nhiên số lượng và lần đi tiểu thay đổi theo thời tiết, hoạt động và ăn uống của mỗi người. Vì lý do thời tiết hay hoạt động làm ra nhiều mồ hôi hay đang bị tiêu chảy thì nước tiểu sẽ giảm xuống và màu sắc đậm hơn. Chỉ xem là bệnh lý khi triệu chứng RLTT không thay đổi theo các yếu tố gây ảnh hưởng nêu trên.
1)                  Tiểu ít: Tiểu ít gồm có số lượng ít hay số lần đi tiểu ít. Nếu bịnh nhân ra nhiều mồ hôi thì gốc bệnh ở chỗ mồ hôi ra nhiều chứ không phải ở đường tiểu (cần điều trị làm giảm mồ hôi). Nếu bịnh nhân đi tiêu lỏng và nhiều lần trong ngày thì gốc ở đường đại tiện (cần điều trị tiêu chảy). Nếu tình hình mồ hôi và đại tiện của bịnh nhân bình thường thì đây mới là bệnh lý ở hệ niệu. Gốc bệnh do Tam tiêu không thông, ít chịu ảnh hưởng của hàn nhiệt. Chỉ cần tác động khai thông tam tiêu và phản chiếu thận.
2)                  Tiểu gắt: Tiểu gắt là hiện tượng tiểu ít kèm theo khó đi tiểu và có cảm giác khó chịu vùng bộ phận sinh dục khi đi tiểu. Trường hợp này đa số là do nhiệt uất ở vùng hạ tiêu và Tam tiêu không thông. Điều trị như trên nhưng cần thêm giải pháp hạ nhiệt.
3)                  Tiểu lắt nhắt: là hiện tượng đi tiểu với số lượng ít nhưng nhiều lần trong ngày. Đây là một triệu chứng rất thường gặp do nhiều nguyên nhân khác nhau: thiếu máu (khám kỹ về huyết của bệnh nhân), cơ vòng bàng quang yếu (tiểu thì dễ mà nín tiểu thì khó), bàng quang bị chèn ép bởi một khối u trong hay ngoài nó hay sa bàng quang, có khi là phẩu tích bàng quang (luôn thấy nặng nề vùng này, có thể cần siêu âm để chẩn đoán phân biệt), viêm bàng quang mạn tính (kèm hiện tượng tiểu vàng, tiểu đục, khó chịu vùng bàng quang). Điều trị: theo cơ chế.
4)                  Tiểu khó: là mắc tiểu nhưng khi đi tiểu thì khó khăn, tiểu chậm chạp, đứng lâu mới tiểu được, thường són thêm nước tiểu sau khi tiểu xong. Nếu do sỏi bàng quang (sỏi tròn không gây đau – sỏi có cạnh bén thì gây đau) thì có lúc đi rất dễ dàng thông suốt, xem phần Sỏi niệu. Nếu do phì đại tiền liệt tuyến thì đi tiểu luôn luôn khó khăn. Đây là bệnh lý khó điều trị, kết quả chậm nếu u xơ, kết quả nhanh nếu phù nề. Chẩn đoán cần dựa vào kết quả siêu âm. Điều trị: viêm phù nề thì tiêu viêm lọc thấp, phản chiếu tiền liệt tuyến. U xơ thì Bổ Âm huyết, tiêu viêm, phản chiếu. Đề phòng ung thư tiền liệt tuyến, cần chẩn đoán thêm theo cận lâm sàng của Tây y.
5)                  Tiểu gấp: là mắc tiểu thì phải đi tiểu ngay không nín được. Số lượng nước tiểu bình thường chứ không ít. Theo Tây y thì chưa rõ cơ chế. Nhưng với Đông y thì do dương khí hạ hãm ở hạ tiêu. Cần dùng bộ Thăng, cần chẩn đoán hàn nhiệt để chọn kỹ thuật thích hợp.
6)                  Tiểu nhiều: là nhiều về số lần đi tiểu lẫn số lượng nước tiểu. Cần cảnh giác với bệnh tiểu đường. Theo Tây y có thể do có rối loạn ở tuyến tùng, tuyến yên. Với Đông y thì do thận dương suy. Cần khám kỹ về Âm Dương. Thường dùng bộ Thăng. Biện pháp ôn ấm.
7)                  Tiểu đêm: Với trẻ em thì thường là tiểu mế, tiểu dầm cần ổn định thần kinh. Với người lớn thì thường do thận dương suy – bộ Thăng làm chủ lực. Với người già thì cần lưu ý về tuyến tiền liệt.
8)                  Tiểu vàng sẫm: do nhiệt vùng hạ tiêu hoặc có thể ở tiểu trường. Thanh nhiệt tiêu viêm, phản chiếu.
9)                  Tiểu đỏ: là tiểu có máu. Đây là một bệnh viêm nhiễm đường niệu, thuộc diện cấp cứu nếu mới phát, nên ưu tiên cho bệnh nhân đi theo bác sĩ điều trị. Nếu đã điều trị theo Tây y mà không khỏi thì mới nên nhận điều trị vì nó đã chuyển sang viêm mạn. Chẩn đoán hàn nhiệt để dùng biện pháp chống viêm thích hợp. Tiêu viêm, phản chiếu nơi bị viêm trong hệ niệu dựa theo kết quả chẩn đoán của Tây y.
10)              Bí tiểu: là mắc tiểu nhưng không tiểu được. Bụng dưới của bệnh nhân căng cứng lên. Đây là trường hợp cấp cứu, chỉ tạm can thiệp trong khi chờ nhập viện. Có thể do: sỏi niệu, co thắt cơ vòng bàng quang (cần chẩn đoán hàn nhiệt). LƯU Ý: Đôi khi chúng ta can thiệp ngay được nhưng coi chừng nếu do sỏi bàng quang thì rất dễ tái phát. Do đó siêu âm chẩn đoán là biện pháp nên làm dù đã điều trị được.
11)              Vô niệu: là không có nước tiểu trong Bàng quang. Đôi khi bệnh nhân có cảm giác mắc tiểu nhưng không tiểu được, nếu không chẩn đoán kỹ ta sẽ lầm là bí tiểu! Cách chẩn đoán vô niệu là dùng tay ấn từ từ vào bụng dưới khu vực của bàng quang. Ta thấy không có lực đối kháng, hay nói cách khác ta sẽ cảm thấy vùng này trống rỗng (xẹp lép). Đây là một bệnh chứng do Thận mất khả năng lọc nước tiểu do đó không có nước tiểu. Là một loại bệnh khó, có nhiều nguyên nhân, tôi chưa thể kết luận được gì mặc dù đã có thành công!

  2.2. RỐI LOẠN KINH NGUYỆT

            RLKN xét cho cùng là rối loạn tổng thể theo cả hai khía cạnh Đông và Tây y. Với Tây y thì cần quan tâm về tuyến nội tiết và thần kinh cũng như thành phần máu là chính. Với Đông y thì do rối loạn về khí huyết âm dương. Nhưng nói chung vẫn không ngoài các chứng suy yếu âm dương khí huyết gây bế tắc hoặc không đủ huyết để hành kinh. Ngoài ra, đối với châm cứu thì sự bế tắc kinh mạch cũng là một nguyên nhân thường gặp. Cần phân biệt hàn nhiệt. Hàn thì có thực hàn và hư hàn, nhiệt thì hầu như chỉ do hư nhiệt (có gốc từ âm huyết hư), rất ít khi do thực nhiệt.
            Vì vậy, điều chỉnh RLKN chính là điều chỉnh âm dương khí huyết. Nói một cách cụ thể chính là điều chỉnh tổng thể. Ngày nào tổng thể cân bằng thì ngày đó kinh nguyệt được điều chỉnh xong. Do đó, không có phác đồ đặc hiệu.
            Nhưng với nghiên cứu cụ thể của Tây y, ngày nay chúng ta thấy khi bệnh nhân có u bướu trong tử cung thì thường gây rong huyết hoặc ngày hành kinh kéo dài. Do đó cần lưu ý khi điều trị không có hiệu quả rõ rệt. Tốt nhất là cho bệnh nhân siêu âm để loại trừ bệnh căn này trước khi nhận điều trị. Vì một u bướu thường bị xuất huyết rất dễ biến chứng thành ung thư.

2.3. SỎI NIỆU

            Sỏi niệu là có sỏi ở hệ thống bài tiết nước tiểu gồm thận, niệu quản và bàng quang. Sỏi được cấu tạo bằng nhiều chất và bằng nhiều phương thức khác nhau. Có loại rất dễ tan rã, có loại không tan được, nhưng siêu âm hay X quang không thể phân biệt được là loại nào (hiện nay, còn tương lai thì… chờ những tiến bộ của Tây y)!
            Chẩn đoán hàn nhiệt tổng thể và cục bộ hệ niệu. Điều trị: Điều chỉnh tổng thể, với cục bộ ta có các phản chiếu thường gặp sau:
1)                  Hệ niệu thuộc Đồ hình phản chiếu nội tạng ở mặt.
2)                  Hệ niệu thuộc Đồ hình phản chiếu nội tạng trên trán.
3)                  Hệ niệu nằm trong phản chiếu Đồ hình Dương (vùng huyệt 43 xuống đến 143, lan ra tuyến B hai bên).
4)                  Loa tai là thận, môi và cằm là bàng quang, niệu quản chạy từ 0 xéo theo bờ dưới xương gò má xuống đến vùng huyệt 38.
Kỹ thuật: với tổng thể ta chọn kỹ thuật thích hợp, điều chỉnh xong. Với cục bộ hệ niệu ta chọn lại kỹ thuật phù hợp, phản chiếu thì chỉ cần dùng hệ nào nhạy cảm nhất mà thôi:
-                    Có hàn: dùng ngải cứu hơ có xoa dầu theo hệ niệu.
-                    Có nhiệt: dùng lăn gai lăn mạnh theo hệ niệu. Lăn đinh hiệu quả cao hơn lăn cầu gai.
-                    Có thể kết hợp với kết quả cận lâm sàng: độ pH của nước tiểu thấp, ta cho bệnh nhân dùng thêm chất kiềm như rau ngò om, rau ngò gai… đại khái là chất chát. Độ pH của nước tiểu cao, ta cho bệnh nhân dùng thêm chất chua, trường hợp này chỉ dùng khi bệnh nhân không có tiền căn hay đang bị loét dạ dày tá tràng.
LƯU Ý:
-                    Ta nên khuyên bệnh nhân dùng mỗi ngày 4 - 5 hột Lười ươi (Ươi, Đười ươi) ngâm nước nở hoàn toàn, bỏ vỏ và hột, uống phần còn lại, có thể pha đường cho dễ uống. Vì sỏi hình thành được là do các protein có trong nước tiểu kết dính các tinh thể lại với nhau, hạt Ươi có thể làm tan các protein này giúp phần làm rã các tinh thể sỏi.
-                    Đa số các trường hợp sỏi thận lớn đều đưa đến huyết áp cao. Cần cẩn thận vì có thể gây tai biến tim mạch cho bệnh nhân.
-                    Ta thành công tương đối dễ dàng khi sỏi nhỏ 4-5 mm trở lại, nằm ở vùng bể thận, niệu quản hay bàng quang. Nếu sỏi nằm sâu trong nhu mô thận thì không thể trục xuất một cách dễ dàng được. Vì thế ta thấy có nhiều trường hợp thành công rực rỡ nhưng cũng không ít trường hợp thất bại.
-                    Cần dặn bệnh nhân: đang trong giai đoạn điều trị mà bỗng nhiên đau quặn bụng và vùng lưng tương ứng (cơn đau quặn thận) thì phải nhập viện ngay, đề phòng trường hợp khi sỏi đi ngang qua niệu quản làm rách niệu quản là một trường hợp thuộc dạng cấp cứu tại bệnh viện, nếu nằm ở nhà là không an toàn cho tính mạng bệnh nhân.
TP. Hồ Chí Minh, 1993.

2.4. SUY NHƯỢC SINH DỤC

            SNSD gồm có dương nuy, tảo tinh (sậu tinh), lãnh cảm. Có nhiều nguyên nhân:
-                    Do tổng trạng suy yếu: khả năng sinh hoạt tình dục giảm dần. Điều chỉnh tổng trạng.
-                    Do tâm lý: lúc mạnh lúc yếu, hoặc ân ái với người này thì tốt người kia thì không tốt. Điều trị như sau: dán cao 124, 34, 103, 106, 342, 340, 175, 107, 0 cho hàn chứng (dương nuy). Với nhiệt chứng (tảo tinh) thì day vaseline 0 + -, 124, 34, 106, 60. Tuy nhiên cũng cần điều chỉnh thêm về tổng trạng.
-                    Do bế tắc thần kinh vùng thắt lưng và xương cùng: tăng giảm thuận theo triệu chứng đau lưng, khám thấy có sinh huyệt vùng này. Giải tỏa bế tắc vùng này.

 2.5. HIẾM MUỘN

            Trước hết cần biết hiếm muộn là một bệnh không liên quan đến khả năng hoạt động tình dục. Một người có năng lực tình dục mạnh vẫn có thể vô sinh hay hiếm muộn như thường. Những nam nhân bị tảo tinh vẫn có thể gây thụ thai cho phụ nữ bình thường, những phụ nữ lãnh cãm vẫn có thể sinh nở hàng chục lần. Chúng ta có thể điều trị tương đối dễ dàng những trường hợp hiếm muộn do cơ năng như co thắt ống dẫn tinh – vòi trứng, tinh loãng, noãn sào thiểu năng, tử cung lạnh. Nếu có biến đổi thực thể như u bướu thì khó khăn hơn, nhưng vẫn có thể điều trị những trường hợp bướu mềm lành tính.
            Hầu hết nguyên nhân gây hiếm muộn là vùng hạ tiêu - sinh thực khí (vùng có cơ quan sinh dục) bị hàn khí và thấp khí nhiễm lâu ngày. Khí lạnh làm co thắt các cơ trơn cơ vòng và các mạch máu nuôi các cơ quan vùng này. Do đó chúng bị thiểu năng và sản sinh tinh trùng hoặc trứng không đủ số lượng hay chất lượng. Chưa kể sự co thắt ống dẫn tinh hay vòi trứng làm nghẽn tắc đường đi của tinh trùng và trứng. Với tử cung thì vì thiếu máu làm giảm khả năng nuôi dưỡng trứng dễ gây trụy thai sớm. (Tôi đã từng thành công một ca bệnh nhân còn trẻ dưới 30 tuổi hư thai 3 lần, bệnh viện đòi mổ và cột cổ tử cung khi có thai lần thứ tư, tôi dùng nguyên lý này làm ấm tử cung trong khoảng 2 tháng (bằng DC-ĐKLP), sau đó vì bận việc riêng, tôi tạm ngưng, kết quả là bệnh nhân sinh được một cháu trai vào tháng thứ 7, tuy sinh non nhưng vẫn khỏe mạnh và phát triển bình thường. Một năm sau khi cháu 1 tuổi tôi mới gặp lại bệnh nhân trên khi cô dẫn bạn đến nhờ tôi trị bệnh).
            Với bệnh này, không có phác đồ mà chỉ là nguyên tắc điều chỉnh tổng trạng và làm ấm tử cung, buồng trứng, vòi trứng, tinh hoàn, ống dẫn tinh. Với vòi trứng và ống dẫn tinh thì còn cần biện pháp chống co thắt (gõ phản chiếu với dầu).
            Nếu bị chèn ép do u bướu trong hay ngoài đường ống thì cần phải trị cho tiêu u bướu này (loại này không dễ). Ngoài phác đồ chính để chỉnh tổng thể thì những vùng tác động phụ gồm có phản chiếu và phóng chiếu vùng này, vùng thần kinh cột sống liên quan từ L1 đến mõm cụt.
            Nếu do bế tắc thần kinh vùng cột sống thắt lưng (đau lưng mạn tính) thì chỉ cần giải tỏa bế tắc vùng này. Tôi cũng đã thành công loại này ở nam giới sau khi nhận thấy anh này hiếm muộn không do thận suy (theo Đông y) mà do thần kinh vùng này bị thiểu năng, trường hợp này chỉ điều trị một đợt 2 tuần trước ngày rụng trứng của vợ. Ngay lần đó vợ anh ta có thai.