6 items tagged "Điều khiển Liệu pháp"

Results 1 - 6 of 6

Đồ hình phản chiếu Ngoại vi

Category: GS.TSKH. Bùi Quốc Châu
Được viết ngày Thứ ba, 14 Tháng 1 2014 17:40

Hệ thống đồ hình phản chiếu các bộ phận ngoại vi cơ thể và các nội tạng lên gương mặt là cơ sở chẩn trị căn bản của phương pháp Diện Chẩn. Qua đó ta có thể sử dụng các dụng cụ diện chẩn để tác động lên các bộ huyệt, tương ứng với các bộ phận phản chiếu trên gương mặt nhằm chữa trị các bệnh chứng tại các bộ phận ngoại vi và cơ quan nội tạng này.

            Nhìn trên đồ hình ta sẽ thấy trên gương mặt sẽ phản chiếu rât nhiều các bộ phận khác nhau từ bên ngoài như tay chân, đầu, thân hình… cho đến các cơ quan bên trong như ngũ tạng lục phủ…Như vậy, khi tác động lên một khu vực là ta đã tác động lên nhiều cơ quan khác nhau, nhưng chỉ có các cơ quan đang có bệnh, đang có những vấn đề không ổn định mới chịu ảnh hưởng của sự tác động này. Đây là một yếu tố độc đáo của phương pháp Diện Chẩn. Điều đó có nghĩa là chỉ bộ phận đau, được tác động đúng mới có hiệu quả, còn bộ phận không đau hay tác động không đúng sẽ không có hiệu quả cũng như bất cứ phản ứng phụ nào, đây cũng là tính an toàn của phương pháp.

 Đồ hình phản chiếu ngoại vi cơ thể Nam & Nữ trên mặt

Đồ hình phản chiếu ngoại vi cơ thể Nam & Nữ trên mặt 

TRÊN MẶT

CƠ THỂ

Đồ hình Âm: hình người đàn bà ( màu xanh)

          Khu vực giữa mí tóc trán

1-     Khu  vực nằm hai bên vùng giữa trán

2-     Đoạn từ giữa trán đên khu vực giữa hai đầu mày (Ấn đường)

3-     Đoạn từ ấn đường đến Sơn căn (chỗ thấp nhất sống mũi giữa 2 đâu mắt)

4-     Sơn căn

5-     Khu vưc sống mũi sát với sơn căn

6-     Chỗ hõm dưới cung gò má (vùng huyệt hạ quan)

7-     Hai gò má /(2 vú)

8-     Đoạn từ hõm dưới cung gò má chéo 45 độ xuống dưới và ra trước đến ngang dái tai thẳng ra đến viền mũi và chay dài theo nếp nhăn mũi má đên khỏi khóe miệng  độ 1cm

9-     Nhân trung

10-  Hai bên nhân trung

11-  Viền mũi

12-  Vùng từ đầu trên mũi xuống bờ môi trên kéo dài ra đến đầu xương quai hàm (nơi huyệt giáp xa)

13-  Từ huyệt giáp xa chéo 45 độ xuống dưới và ra trước đến bờ dưới xương hàm dưới

 14-  Dọc theo bờ dưới xương hàm dưới đến cằm

 

Đỉnh đầu

Hai mắt

Mũi

 

Nhân trung

 Môi, miệng, lưỡi

Cằm

Khớp vai

 Hai vú

 

Cánh tay, cùi chỏ

 

   Âm hộ (âm đạo-tử cung)

Noãn sào

Háng

Vùng đùi gối

 

 Vùng đầu gối và cẳng chân

 Các ngón chân: ngón cái về phía quai hàm, ngón út về phía quai hàm

Đồ hình Dương: hình người đàn ông ( màu đỏ)

1-     Giữa trán

2-     Phần trên ấn đường

3-     Hai chân mày và gờ cung mày

4-     Đầu mày

5-     Góc nhọn của chân mày

6-     Chỗ hõm dưới gờ chân mày

7-  Từ cuối chân mày ra thái dương và theo viền tóc mai xuống đến ngang đỉnh xương  má

8-     Sống mũi ( là cột sống)

9-     Cánh mũi

10-  Đầu trên rãnh Nhân trung

 11-  Nhân trung

 12-  Hai bên Nhân trung

13-  Từ viền mũi qua bờ môi trên

14-  Khóe miệng và  khu vực bọng má

15-  Từ bọng má chéo xuống cằm

16-  Bờ cong ụ cằm

17-Từ chóp cằm trở ra theo bờ dưới xương hàm xương hàm dưới

Đỉnh đầu

Chẩm và cổ gáy

Hai cánh tay

Khớp vai

Cùi chỏ

Cổ tay

Bàn tay (úp xuống) và các ngón cái ở thái dương, ngón út ở ngang đỉnh xương gò mũi

cột sống (sống lưng)

Mông

Hậu môn

 Dương vật

 Dịch hoàn

Háng-đùi

Nhượng chân và gối

Cẳng chân, cổ chân, bàn chân, ngón chân

Gót chân

Các ngón đầu ngón chân

 

 

   
Đồ hình phản chiếu bàn tay mở Đồ hình phản chiếu bàn tay nắm
   
Đồ hình phản chiếu bàn chân Đồ hình phản chiếu hai lỗ tai
 
 
   
Đồ hình phản chiếu
Tay, chân, mắt, mũi, lưỡi
Đồ hình phản chiếu
Ngoại vi cơ thể trên da đầu
Đồ hình phản chiếu tay – chân – mắt – mũi
1.Mông – vai
2. Khuỷu tay 
3. Bàn tay
4. Mắt
5. Mũi
6. Miệng
7. Lưỡi
8. Khí quản – thực quản
1. Vùng giữa trán và trên trán
2. Vùng trên thái dương
3. Vùng thái dương
4. vùng dưới thái dương
5. Phía trước thái dương
6. Phía dái tai, bọng má
7. Khu vực dái tai, bọng má
8. Vùng bọng má.
Đồ hình phản chiếu ngoại vi cơ thể trên da đầu
  1. Đầu, cổ
  2. Hai cánh tay
  3. Thân mình
  4. Hai bàn chân
  1. Vùng trên trán
  2. Vùng sau thái dương
  3. Dọc theo đỉnh đầu
       4.Phần sau đầu
 
 
 
Đồ hình Rodin Đồ hình phản chiếu cơ thể nhìn nghiêng
 Đồ hình Rodin
  1. Cổ gáy
  2. Cánh tay
  3. Cổ tay – bàn tay
  4. Sống lưng
  5. Cẳng chân
  6. Bàn chân
  1. Vùng bán bình tai
  2. Vùng giữa tai và mắt
  3. Vùng khóe mắt
  4. Sát vành tai
  5. Vùng má 
  6. Vùng cằm
Đồ hình phản chiếu cơ thể nhìn nghiêng
  1. Đầu
  2. Hai cánh tay – bàn tay
  3. Lưng
  4. Đùi – cẳng chân
  5. Bàn chân
  1. Trán
  2. Hai lông mày – khóe mắt
  3. Sống mũi
  4. Hai mép
  5. Vùng cằm
 
"Thực hành Diện Chẩn Điều Kiển liệu pháp"
GS.TS Bùi Quốc Châu - DienChan.com

Lịch sử phương pháp Diện Chẩn

Category: GS.TSKH. Bùi Quốc Châu
Được viết ngày Thứ ba, 14 Tháng 1 2014 17:19

           Trong lịch sử Y học Thế giới đã có một số phương pháp tương tự với DIỆN CHẨN – ĐIỀU KHIỂN LIỆU PHÁP(FACY) nếu xét qua về mặt hình thức – vì nó dựa trên nguyên tắc phóng chiếu (Projection) – trong khi FACY dựa trên nguyên tắc PHẢN CHIẾU (REFLECTION) là một hình thức tương tự PHÓNG CHIẾU NHƯNG ĐA CHIỀU (MULTI - DIRECTION) TRONG KHI PHẢN CHIẾU CHỈ CÓ MỘT CHIỀU TRÊN MỘT MẶT PHẲNG DUY NHẤT. PHẢN CHIẾU (REFLECTION) CÓ THỂ GỌI LÀ PHẢN XẠ NHIỀU CHIỀU VÀ ĐA HỆ (MULTISYSTEM). DO ĐÓ NÓ CŨNG KHÁC PHẢN XẠ CỔ ĐIỂN LÀ PHẢN XẠ ĐƠN HỆ.

          Các phương pháp đó là Vọng chẩn của Đông Y cổ truyền (Médecine Traditionnelle Orientale). Nhãn chẩn (L’Iriscopie) của Ignas Peczely (1980) phương pháp kích thích vùng bên trong mũi để trị bệnh (Réflexothérapie endonasale) của Bonnier (1930), cũng như của Asuero (1931), Diện châm (Faciopuncture), Tỵ châm (Nasopuncture) của Trung Y (Médecine Chinoise), Nhĩ châm (Ariculothérapie) của P.Nogier, thủ châm (Manopuncture) và túc châm (Podopuncture). Mỗi phương pháp trên đều có hình chiếu hoặc nhũng điểm tương ứng với các bộ phận của cơ thể, dùng để chuẩn đoán hay trị bệnh.
          Trong khi đó, Diện Chẩn – Điều Khiển Liệu pháp ( DC – ĐKLP -Réflexologie faciale) là một phương pháp do GS.TSKH Bùi Quốc Châu tìm tòi và xây dựng nên cách đây 13 năm (từ đầu năm 1980 tại Thành Phố Hồ Chí Minh). với xuất phát điểm từ những kinh nghiệm dân gian Việt Nam, từ nền văn hóa triết học đông phương, trong đó có ngôn ngữ Việt Nam, văn chương bình dân Việt Nam được thể hiện qua ca dao, tục ngữ, phương ngôn và những câu nói dung tục (vulgaire) trong dân gian.
          Với niềm tin tưởng và quyết tâm, cộng với môi trường rất tốt cho việc nghiên cứu  đã giúp GS.TSKH Bùi Quốc Châu có nhiều dịp quan sát các dấu vết bất thường trên mặt các bệnh nhân  cũng như có điều kiện để châm từng mũi kim trên các huyệt ở MẶT để tìm hiểu sự liên quan giữa các điểm trên vùng MẶT với từng bộ phận của cơ thể, đồng thời đề xác minh cho các giả thuyết của mình về sau này. Qua đó tác giả  phát hiện ra những dầu mối quan hệ giữa những điểm trên MẶT và các khu vực với toàn thân. Nhưng đặc biệt là  tác giả đã nghiên cứu khám phá ra những bí ẩn của BỘ MẶT theo một hướng khác với các tác giả có những công trình tương tự trước đây (như Nhĩ châm, Đầu châm,Thủ châm, Túc châm).
          Có thể nói DIỆN CHẨN - ĐIỀU KHIỂN LIỆU PHÁP (FACY) xây dựng theo một hướng đã định trước dựa trên một phương pháp luận đã có ngay từ bước đầu. Thật vậy, những nguyên tắc tìm ra huyệt hay Đồ hình một cách chính xác và mau chóng đã được tác giả khám phá và xây dựng từ những câu nói đơn giản của cổ nhân, chủ yếu trong lãnh vực Triết học, Văn học, Ngôn ngữ học Đông phương và Việt Nam.
            “ Còn việc khám phá và vẽ ra các Đồ hình trên Mặt (và sau này trên toàn thân) tức là những vùng phản xạ được hệ thống hóa một cách nhất quán là do tôi vận dụng một trong những quy tắc cốt yếu và đồng thời cũng là quy tắc đầu tiên để khám phá và thiết lập Đồ hình. Đó là quy tắc ĐỒNG HÌNH TƯƠNG TỰ (Correspondance en même forme). Phải nói chính nhờ quy tắc này mà tôi khám phá ra nhiều Đồ hình phản chiếu một cách rất dễ dàng và nhanh chóng.
( GS.TSKH. BQC)
            Việc xác nhận giả thuyết SỐNG MŨI TƯƠNG ỨNG VỚI SỐNG LƯNG là đúng, xảy ra vào sáng ngày 26 tháng 03 năm 1980 trên bệnh nhân nghiện ma túy tên là Trần Văn Sáu tại trường Fatima, Bình Triệu. Như các trường hợp nghiện ma túy khác, bệnh nhân rất đau ở cột sống thắt lưng khi lên cơn nghiện ma túy. Thế mà chỉ sau hơn một phút kể từ khi tác giả châm một mũi kim vào đầu mũi (tương ứng với thắt lưng đang bị đau của bệnh nhân theo quy tắc CHÂM VÀO BẤT THỐNG ĐIỂM (điểm không đau) thì một sự kỳ diệu xảy ra là bệnh nhân giảm đau cột sống thắt lưng một cách rõ nét đến mức giảm đau nhiều hơn là châm vào điểm đốt sống thắt lưng ở đối vành tai theo Nhĩ châm (cũng châm vào điểm không đau) cũng để trị cơn đau cột sống thắt lưng của anh ta. Ngoài ra, còn có hiện tượng đặc biệt là có một đường dẫn truyền như kiến bò chạy từ nơi châm vòng qua đầu đến nơi đang đau ở cột sống thắt lưng ngay sau khi châm, nghĩa là điều này đã chứng minh được giả thuyết SỐNG MŨI TƯƠNG ỨNG VỚI SỐNG LƯNG) là chính xác.
            Từ những Đồ hình phản chiếu ở trên Mặt được khám phá và vẽ ra trong vòng 3 năm (từ năm 1980 đến 1983) với 22 hệ, cho đến những hệ thống Đồ hình phản chiếu trên DA ĐẦU được tìm ra năm 1988 và hệ thống phản chiếu CÁC BỘ PHẬN Ở TOÀN THÂN (năm 1989), kể cả hệ phản chiếu trên LOA TAI với nhiều Đồ hình khác nhau (tất nhiên là khác với Đồ hình Bào thai lộn ngược của BS Nogier) đều có sự đóng góp chủ yếu của thuyết ĐỒNG ỨNG. Trong phương pháp DIỆN CHẨN FACY còn có nhiều thuyết khác, như thuyết PHẢN CHIẾU, ĐỐI XỨNG, GIAO THOA, BẤT THỐNG ĐIỂM, TAM GIÁC, NƯỚC CHẢY VỀ CHỖ TRŨNG … Tất cả đều góp phần vào việc xây dựng phương pháp. Nhưng có một điều cần được nhấn mạnh ở đây là hầu hết những thuyết nền tảng của phương pháp đều được gợi ý từ những lãnh vực ngoài Y học chính thống mặc dù trong việc kiến trúc toàn bộ phương pháp đều có sự góp mặt của ba dòng Y học.
            Y học cổ truyền, Y học hiện đại và Y học Dân gian. Đây có lẽ là nét đặc thù của phương pháp DIỆN CHẨN (FACY) so với các phương pháp tương tự khác đã có trên thế giới trước đây. Vì rõ ràng từ xuất phát điểm cho đến việc tiến hành xây dựng hệ thống lý thuyết không đi theo chiều dọc thẳng từ Y học xuống mà lại đi theo chiều ngang từ các ngành Khoa Học Nhân Văn như Triết học, Văn học, Ngôn ngữ học, Tướng học … Sau đó được bổ sung bằng các chất liệu khác như điều khiển học, Hình học, Trường sinh học, Vật lý học v.v…
            Tóm lạiDIỆN CHẨN (FACY) không phải là một sản phẩm đơn thuần Y học mà là kết quả tổng hợp của nhiều ngành khác trong đó chủ yếu là văn hóa và triết học Đông phương (như Phật, Khổng, Lão, Thiền, Dịch học …) có thể nói là đứa con tinh thần của Văn hóa Việt Nam với tính TỔNG HỢP, CHIẾT TRUNG VÀ SÁNG TẠO NHUẦN NHUYỄN. Chúng tôi gọi nó là Y ĐẠO (I’TAO) hay là Y HỌC - VĂN HÓA - TRIẾT HỌC vì nó không dừng ở chỗ Y-thuật hay Y-đức, mà cái nó nhắm tới là không chỉ đem lại SỨC KHỎE CHO THÂN THỂ VÀ TINH THẦN CỦA CON NGƯỜI MÀ CÒN GIÚP MỞ MANG TÂM TRÍ (MINH TRIẾT HƠN) RỒI THÔNG QUA VIỆC CHỮA BỆNH CHO MÌNH VÀ CHO NGƯỜI MÀ DẦN DẦN ĐẠT LÝ CỦA TRỜI ĐẤT VÌ CON NGƯỜI VÀ VŨ TRỤ LÀ MỘT (THIÊN NHÂN HỢP NHẤT) CHO NÊN THẤU HIỂU MÌNH TẤT SẼ HIỂU CÁI LÝ CỦA TRỜI ĐẤT. Ngoài ra nó còn giúp mở rộng sự giao lưu văn hóa giữa các dân tộc với nhau (vì theo NHẤT NGUYÊN LUẬN, TẤT CẢ LÀ MỘT), đóng góp vào việc hình thành một nền văn hóa thế giới. Còn xét về mặt hình thức thì nó là tổng hợp của Phản xạ học, châm cứu và Xoa bóp. Tuy nhiên, có lẽ nó gần gũi với Phản xạ học nhiều hơn, nhưng là một Phản xạ học mới : PHẢN XẠ ĐA HỆ (nếu có thể gọi được như vậy để phân biệt với Phản xạ học cổ điển hay là PHẢN XẠ ĐƠN HỆ) hay còn gọi là PHẢN XẠ HỌC VIỆT NAM (Réflexologie Vietnamienne). Đây cũng là một loại NHU Y (Médecine douce) hay Y HỌC TỰ NHIÊN (Médecine naturelle) vì KHÔNG DÙNG THUỐC CŨNG KHÔNG DÙNG KIM CHÂM MÀ CHỈ DÙNG MÀ CHỈ DÙNG TAY HAY DỤNG CỤ (như : cây lăn, cây cào, búa gõ, que dò, ngải cứu, máy xung điện). Nó cũng là một hình thức của Y TẾ CỘNG ĐỒNG (La Santé Commune) vì có thể phổ biến rộng rãi cho nhiều người cùng học và làm được một cách dễ dàng và an toàn nhất là trong phạm vi chăm sóc sức khỏe ban đầu.
"Trích cuốn Thực hành Diện Chẩn Điều Kiển liệu pháp"
GS.TS Bùi Quốc Châu - DienChan.com 

Tại sao gọi là Điều Khiển Liệu pháp ?

Category: GS.TSKH. Bùi Quốc Châu
Được viết ngày Thứ ba, 14 Tháng 1 2014 17:13

  Sở dĩ gọi là Điều Khiển Liệu Pháp là vì ta có thể tác động vào các huyệt đạo ở vùng mặt và một số vùng trên cơ thể bằng các kỹ thuật như ấn, day, lăn, xoa, cào... thông qua các công cụ của Diện Chẩn và sự tác động đó có khả năng điều khiển để tạo ra những hiệu ứng trên các bộ phận nội tạng và ngoại vi của cơ thể.

 Việc điều khiển gây ra những tác động cũng giống như ta điều khiển cái remote của các loại máy móc ( TV, Máy Lạnh, Quạt máy...) để khởi động hay tắt các hoạt động. Khi ta tác động lên các huyệt đạo cũng chính là việc khởi động cho quá trình điểu chỉnh trên các bộ phận của cơ thể , tạo ra những biến chuyển cho toàn bộ hệ thống sức khỏe của người bệnh.
"Trích cuốn Thực hành Diện Chẩn Điều Kiển liệu pháp"
GS.TS Bùi Quốc Châu - DienChan.com

Chữa viêm xoang bằng Diện Chẩn

Category: Tạ Minh
Được viết ngày Thứ bảy, 21 Tháng 12 2013 20:00

Lương y Tạ Minh 

Viêm xoang là gì?

Xoang là những mảnh xương vùng mặt được cấu tạo không đăc mà đầy lổ hang,có các dây thần kinh và đặc biệt là máu ra vào rất nhiều. Xoang bị viêm khi nhiễm trùng hoặc máu ứ lại và hoại tử  trong nó. Diện chẩn Điều khiển liệu pháp Bùi Quốc Châu điều trị viêm xoang rất tốt vì ngoài tính kháng viêm còn tính khai thông tuần hoàn huyết ở  đây.

Chữa cận thị theo phương pháp Diện Chẩn

Category: Kinh nghiệm lâm sàng
Được viết ngày Thứ ba, 10 Tháng 12 2013 10:36

Thế nào là cách chữa bằng Diện chẩn?

Diện chẩn tên đầy đủ là “Diện chẩn- Điều khiển liệu pháp”do Thầy Bùi Quốc Châu sáng lập, là một phương pháp chữa bệnh bằng cách dùng que dò tác động vào các điểm sinh huyệt nhạy cảm trên da nằm trong vùng phản xạ thần kinh trên mặt, để chữa trị nhiều loại bệnh có kết quả tốt mà không dùng thuốc.

Đường lối diện chẩn

Category: GS.TSKH. Bùi Quốc Châu
Được viết ngày Thứ tư, 30 Tháng 10 2013 13:36

Tg: GS TSKH Bùi Quốc Châu

 Tại sao tôi viết bài này? Vì Diện Chẩn hiện nay đã và đang có hàng triệu người áp dụng ở hàng trăm quốc gia trên thế giới (chỉ tính đến sáng ngày 8/7/2011, số lượt người truy cập*, xem http://www.dienchan.com đã hơn 1.400.000, thuộc 105 quốc gia/lãnh thổ) sau 31 năm kể từ khi tôi tìm ra phương pháp chữa bệnh không dùng thuốc mà ngày nay được gọi với tên ngắn gọn là DIỆN CHẨN, thay vì gọi đầy đủ như trước đây là “Diện chẩn – Điều khiển liệu pháp”.
Tác giả Diện Chẩn - Bùi Quốc Châu 
Người tìm ra chỉ có một, lý thuyết cũng chỉ có một người viết ra – đó là tác giả Bùi Quốc Châu nhưng người làm tức thực hành, áp dụng thì có hàng triệu. Đó là nói hiện nay chứ đến vài chục hay 100 năm sau thì người áp dụng  Diện Chẩn sẽ có đến hàng tỉ. Cho nên nếu không nói rõ đường lối, phương hướng chữa bệnh thì sẽ xảy ra tình trạng bát nháo, mỗi người một cách, không đúng với TINH THẦN CỦA DIỆN CHẨN mà người sáng lập ra đã đề ra.
Để hiểu đúng tinh thần Diện Chẩn là gì thì ta phải trở lại từ đầu, xem nền tảng của phương pháp Diện Chẩn là gì và mục đích của người sáng lập là dùng Diện Chẩn để làm gì.
Nền tảng của Diện Chẩn
Trước hết xin nói về NỀN TẢNG CỦA DIỆN CHẨN. Như trong các bài viết trong sách Diện Chẩn và giáo trình, tôi luôn nói là Diện Chẩn được xây dựng trên nền tảng Đạo học Đông phương (gồm Tam Giáo: Phật, Khổng, Lão-Trang và Kinh Dịch), Văn hóa Việt cùng 3 nền y học  là y học hiện đại, y học cổ truyền và y học dân gian (Xem bài Vài nét về lịch sử môn Diện Chẩn-Điều Khiển Liệu Pháp  trong sách Bài giảng Diện Chẩn Điều Khiển Liệu Pháp, trang 5 – 14 )mà người học Diện Chẩn phải học hoặc ít nhất phải biết những điều tôi đề cập ở trên là gì. Như thế, Diện Chẩn  là phương pháp mang tính TỔNG HỢP rất cao. Nhất là việc hiểu và vận dụng Đạo học Đông phương vào Diện Chẩn là phần cực kỳ quan trọng, có thể nói là cốt lõi của phương pháp Diện Chẩn, mới có chữ Tâm và chữ Tùy trong Diện Chẩn. Từ y học cổ truyền mới có việc vận dụng hệ Kinh lạc, Tứ chẩn, Bát Cương, Âm dương Ngũ hành.Vận dụng y học hiện đại vào Diện Chẩn mới có 6 vùng phản chiếu hệ bạch huyết, hệ thần kinh thực vật, hệ nội tiết, hệ thần kinh -  12 đôi dây TK sọ não, hệ da, hệ cơ… Vận dụng y học dân gian và văn hóa Việt vào Diện Chẩn mới có cách chữa theo Đồng ứng, Đồng hình, Đồng tự, Đồng âm (tương tự cách chữa mẹo trong dân gian), cách chữa theo Thập nhị huyền công tương tự cách chữa bằng bùa chú trong dân gian (nhưng không phải là bùa chú)…
Mục đích của Diện Chẩn
Kế đến xin nói về MỤC ĐÍCH CỦA DIỆN CHẨN. Diện Chẩn dùng để làm gì? Người sáng lập là tôi chỉ có mỗi ước muốn duy nhất là mong dùng phương pháp  mình đã khổ công tìm ra để đem lại sức khỏe, sự bình an, trí tuệ, hạnh phúc, tính độc lập và tự do cho tất cả những người Đau và Khổ trên cõi đời này, trong đó dân tộc Việt Nam ta là ưu tiên. Với phương pháp của mình, mong muốn thiết tha của tôi là sao cho tất cả mọi người trên trái đất này, gồm hết nam, phụ, lão, ấu và gồm cả cây cỏ, hoa lá, thú vật, chim muông (kể cả đồ vật) đều được hưởng sự mầu nhiệm của Diện Chẩn nên bắt buộc tôi phải tìm tòi, suy nghĩ ra những cách vô cùng đơn giản nhưng lại rất hiệu quả để cho mọi người đều có thể học và làm được trong thời gian ngắn. Cho nên từ giai đọan mở đầu phương pháp Diện Chẩn, tôi đã dùng kim nhỏ và ngắn châm trên MẶT người bệnh, sau đó do nghĩ rằng nếu dùng kinh châm thì không thể đại chúng hóa nhanh được nên tôi đã bỏ cách dùng kim, thay vào đó là những dụng cụ làm bằng sừng trâu, kim loại và nhựa cao cấp, cũng như đã mở rộng phạm vi nghiên cứu và điều trị không chỉ ở vùng MẶT mà ra khắp toàn thân. Về điều trị, từ những phác đồ gồm nhiều dãy số đã có thêm những phác đồ ngắn gọn và sau này, nhiều khi khộng cần dùng đến huyệt đạo cũng giúp cho người bệnh hết bệnh hoặc thuyên giảm.
Cho đến những năm gần đây, người bệnh chỉ cần đọc số huyệt (Niệm công), tác động lên hình ảnh (Ảnh công) hay nghĩ về bộ phận đang đau (Ý công), viết chữ trên giấy (Từ công), viết bằng ngón tay lên bộ phận đang đau (Khoán công) hay uống nước (Thủy công)…đều có thể giảm hay hết bệnh. Những cách này không cần phải vận dụng lý thuyết Tây hay Đông y nhưng vẫn đem lại hiệu quả đáng ngạc nhiên cho những ai đã được chữa hay tự chữa.
Như tôi thường nói “có nhiều con đường để đi đến một nơi”, Diện Chẩn cũng thế. Có nhiều cách để chữa một bệnh, cách nào chữa NHANH, GỌN, ÍT ĐAU ĐỚN, ÍT TỐN KÉM NHẤT LÀ CÁCH HAY NHẤT, chứ không phải là dùng cách chữa chính thống mới được. Vì quan niệm rộng rãi, cởi mở của tác giả là không bắt buộc phải biết các lý luận y học Tây hay Đông y mà người bệnh – trước mắt là môn sinh của tác giả  – mới được hưởng những kết quả kỳ diệu như các bạn đã từng biết.
Cho nên nếu bạn nào nói rằng học Diện Chẩn là phải biết lý luận y học hiện đại hay cổ truyền rồi mới nên chữa bệnh cho mình và cho người khác là không đúng, đó là bị chấp. Vì như trong dân gian, từ lâu đã có những cách chữa bệnh không căn cứ vào lý luận y học nào cả mà kết quả vẫn vượt xa sự mong muốn và tin tưởng của mọi người.
Tất nhiên, nếu chúng ta nói không cần kiến thức về y học hiện đại và cổ truyền là không đúng. Nhưng nếu nói phải có kiến thức về Đông hay Tây y mới được hoặc mới nên chữa bệnh bằng Diện Chẩn là sai vì điều trước hết chúng ta cần phải nhớ là “Diện Chẩn không phải là Đông hay Tây y và đối với người bệnh, điều quan trọng nhất là chữa hết bệnh cho họ, chứ không phải biết rõ  bệnh của họ nhưng lại không chữa được cho họ lành bệnh”.Cho nên nếu bạn có học qua Đông hay Tây y thì càng tốt nhưng nếu không có cũng không sao ( như với cách chữa mẹo hay Thập nhị huyền công, có người không biết gì về Đông y hay Tây y vẫn chữa được những bệnh mà Đông, Tây y nhiều khi không thể chữa dứt hẳn hay bó tay luôn, là như: viêm xoang, viêm chu vai, viêm mũi dị ứng, viêm mủ lỗ tai, bệnh trĩ, nhức đầu kinh niên, mất ngủ kinh niên.v.v…). Từ những ca bệnh điển hình này, các bạn hãy để ý đến và nhớ lại những TÂM NGÔN DIỆN CHẨN mà tôi thường nói trong lúc giảng dạy, cũng như những câu nói của cổ nhân, của bà con quần chúng trong dân gian cũng như kinh nghiệm bản thân. Hãy dùng những hiểu biết này của mình trong lúc chữa trị bệnh cho mình và cho người khác.
Nói tóm lại, vì nền tảng của Diện Chẩn là Tam Giáo, là văn hóa Việt, là kinh Dịch và 3 nền y học cùng nhiều kiến thức khác, nên không thể nói “học Diện Chẩn là bắt buộc phải biết Đông và Tây y” mà nên nói rằng “nếu muốn trở thành môn sinh Diện Chẩn giỏi thì nên học thêm Đông và Tây y, và nếu có điều kiện, phải đọc thêm sách viết về Đạo học Đông phương như Phật, Khổng, Lão-Trang, kinh Dịch, văn hóa Việt nữa chứ không chỉ có sách y học là đủ”.  Có nhiều người do trình độ học vấn có hạn, nghe nói học Diện Chẩn  bắt buộc phải học Đông và Tây y thì họ rất ngại, do ai cũng biết việc học Đông, Tây y không phải là dễ và cũng không phải trong thời gian ngắn là thấu hiểu, nắm bắt được dù cho chỉ là các phần căn bản. Vã lại, chúng ta càng ngày càng có nhiều cách chữa bệnh không cần đến huyệt, cũng không cần biết đến lý luận Đông, Tây y mà vẫn chữa hết bệnh, như: Ý công, Từ công, Khoán công.v.v… Thực tế này càng chứng tỏ Diện Chẩn là một phương pháp chữa bệnh độc đáo, kỳ lạ, dành cho tất cả mọi người, kể cả người bình dân ít học, trẻ em, người lớn tuổi, người khuyết tật nhẹ… đều có thể học được và làm tốt. Sở dĩ Diện Chẩn đạt được điều này mà từ trước đến nay ít có phương pháp nào có thể làm được như vậy là vì tác giả đã DÀNH NHIỀU THỜI GIAN NGHĨ ĐẾN VIỆC TÌM RA CÁCH CHỮA ĐƠN GIẢN, DỄ HỌC, DỄ LÀM ĐỂ MỌI NGƯỜI TRÊN HÀNH TINH NÀY CÓ THỂ TỰ CỨU MÌNH MÀ KHÔNG LỆ THUỘC NHIỀU VÀO THUỐC MEN NHƯ TRƯƠC ĐÂY, THẦY THUỐC HAY NGƯỜI KHÁC.
Cho nên đối với những kiến thức cao, khó hiểu, khó nhớ như Đông, Tây y thì tác giả không đề cao hay yêu cầu học viên Diện Chẩn bắt buộc phải học ngay từ đầu – như vậy là tạo sự khó khăn cho họ ngay từ lúc mới vào học. Tác giả nghĩ rằng những kiến thức về Đông, Tây y ở mức cao nên dành cho những người đã có học vấn cao, trình độ vững vàng về Diện Chẩn rồi mới nên học. Trái lại, nếu chú ng ta đặt ra yêu cầu đó cho những người ít học,mới bước chân vào Diện Chẩn thì không nên vì sẽ tạo sự khó khăn khiến họ sẽ nãn chí và bỏ cuộc vì cho rằng “Diện Chẩn khó quá!”.
Trên đây là những điều mà tôi đã quan sát, chiêm nghiệm và lắng nghe từ quần chúng học viên sau gần 30 năm dạy Diện Chẩn. Do đó tôi mong các môn sinh Diện Chẩn trong và ngoài nước hãy đọc kỹ bài này để nắm vững đường lối phổ biến Diện Chẩn hiện nay và trong tương lai.
  
GS TSKH Bùi Quốc Châu
(Nguồn dienchan.com)
Powered by EasyTagCloud v2.5 Free